Các dạng hay gặp nhất của bệnh mất trí nhớ

Bệnh mất trí nhớ có rất nhiều dạng, được phân loại dựa theo những dấu hiệu, triệu chứng và hậu quả của căn bệnh tác động đến người bệnh. Điều quan trọng là bác sĩ và gia đình người bệnh cần phải phối hợp để tìm ra chính xác dạng bệnh mà bệnh nhân đang gặp phải để có phương pháp điều trị thích hợp và kịp thời.

Các dạng hay gặp nhất của bệnh mất trí nhớ 1

Bệnh Alzheimer: Bệnh Alzheimer là một bệnh mất trí tiến triển ngày càng nặng, đây là bệnh lí thoái hoá não nguyên phát do sự huỷ diệt từ từ của các tế bào thần kinh trong não. Hiện nay, các nhà nghiên cứu chưa chắc chắn nguyên nhân chính xác gây ra bệnh. Tuy nhiên, có một nguyên nhân của bệnh Alzheimer được cho là do sự hiện diện của các mảng protein dạng tinh bột beta (Aß – protein amyloid beta) bám ở não làm cho não bị tổn thương. Alzheimer thường tiến triển chậm, hơn bảy đến 10 năm gây ra một sự suy giảm dần khả năng nhận thức. Các hiện tượng vong ngôn, vong tri, vong hành xuất hiện tương đối sớm trong quá trình mất trí ở hầu hết các trường hợp. Cuối cùng, một phần bị ảnh hưởng của não không thể hoạt động đúng vì các chức năng hạn chế, bao gồm cả những liên quan đến bộ nhớ, chuyển động, ngôn ngữ, hành vi và tư duy trừu tượng. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh mất trí nhớ ở những người 65 tuổi trở lên.

Xem thêm: Bệnh mất trí nhớ là gì?

Mất trí nhớ Lewy: Sa sút trí tuệ thể Lewy là nguyên nhân phổ biến thứ hai của chứng mất trí, chỉ sau bệnh Alzheimer. Đây là một bệnh thoái hóa tiến bộ cùng với các triệu chứng Alzheimer và Parkinson. Rối loạn này gây khuyết khả năng nhận thức tương tự như trong bệnh Alzheimer và gây ra các vấn đề về di chuyển tương tự bệnh Parkinson, do đó việc xác định chẩn đoán có thể gặp khó khăn. Các triệu chứng của nó thường bao gồm các biến động về sự nhầm lẫn và tư duy rõ ràng (sáng suốt), ảo giác thị giác và dấu hiệu Parkinson như run và cứng.

Sa sút trí tuệ mạch máu: Chứng mất trí này là kết quả của thiệt hại cho bộ não gây ra sau một loạt các cơn đột quỵ hoặc thiếu máu não tạm thời. Sa sút trí tuệ mạch máu cũng có thể được gây ra bởi nhiễm trùng của một van tim (viêm nội tâm mạc) hoặc tích tụ của protein amyloid trong các mạch máu của não (amyloid angiopathy) mà đôi khi gây ra “chảy máu” (xuất huyết) đột quỵ. Bệnh thường gặp ở tuổi muộn, gặp nhiều ở nam giới, tiền sử huyết áp cao, có những đợt thiếu máu não cục bộ hoặc một số bệnh lý tim mạch khác…

Sa sút trí tuệ thái dương: Đây là một nhóm bệnh đặc trưng bởi sự thoái hóa của các tế bào thần kinh ở thùy trán của bộ não. Nơi đây kiểm soát lý luận, tính cách, chuyển động, lời nói, ngôn ngữ xã hội và một số khía cạnh của bộ nhớ. Nguyên nhân không được biết, mặc dù trong một số trường hợp mất trí nhớ này là đột biến nhất định liên quan đến di truyền. Nhưng nhiều người không có tiền sử gia đình sa sút trí tuệ cũng mắc căn bệnh mày. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh mất trí nhớ này có thể bao gồm các hành vi xã hội không thích hợp, mất tính linh hoạt về tinh thần, vấn đề ngôn ngữ và khó khăn với tư duy và tập trung, thường xuất hiện trong độ tuổi từ 40 và 65.

Bệnh Huntington: Thừa hưởng căn bệnh này gây ra một số tế bào thần kinh trong não và tủy sống. Các dấu hiệu và triệu chứng thường xuất hiện trong độ tuổi 30 hoặc 40. Có thể đầu tiên bao gồm thay đổi nhân cách nhẹ, dễ cáu gắt, lo lắng, trầm cảm và tiến triển đến mất trí nhớ trầm trọng. Bệnh Huntington cũng gây khó khăn khi bước đi và chuyển động, sự yếu đuối và vụng về. Nguyên nhân của bệnh huntington thường do đột biến di truyền có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Bệnh mất trí nhớ Parkinson: là một rối loạn thoái hoá của hệ thần kinh trung ương bao gồm một tập hợp các triệu chứng như run, không thân mật, di chuyển chậm, dáng đi không vững. Nó có đặc điểm cứng cơ, run, tư thế và dáng đi bất thường, chuyển động chậm chạp và trong trường hợp bệnh nặng người bệnh có thể mất đi một số chức năng vận động vật lý. Khi Parkinson xảy ra mà không có những bất thường thần kinh khác, và không biết nguyên nhân, được gọi là bệnh Parkinson. Bệnh này được đặt theo tên một bác sỹ người Anh, năm 1817 ông là người đầu tiên mô tả về bệnh này.

Creutzfeldt- Jakob: Bệnh bắt đầu với các triệu chứng thần kinh phong phú, teo cơ dấu hiệu tổn thương thần kinh thường kèm theo liệt cứng ở các chi. Các triệu chứng khác thường gặp là run, co cứng rối loạn vận động, một số các triệu chứng thường gặp khác là thất điều và mất thị giác…Các dấu hiệu và triệu chứng này thường xuất hiện ở tuổi 60 và ban đầu bao gồm các biểu hiện như thay đổi nhân cách, bộ nhớ suy giảm. Tinh thần suy kiệt nghiêm trọng và nó thường dẫn đến mù loà. Viêm phổi và nhiễm trùng và các bệnh khác cũng xảy ra kèm theo phổ biến.

Tràn dịch não: Đây là một chứng bệnh sinh ra vì cơ thể tiết ra quá nhiều dịch bao quanh não. Dáng đi không ổn định, tiểu không tự chủ và chứng mất trí là những dấu hiệu và triệu chứng thường thấy ở những bệnh nhân tràn dịch não. Được coi là một nguyên nhân hiếm gặp của bệnh mất trí nhớ, bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến người già hơn 60 tuổi. Tỷ lệ chính xác của bệnh tràn dịch não là khó xác định bởi vì bệnh chưa có định nghĩa chính thức được chấp thuận. Một số bác sĩ chẩn đoán bệnh trên bằng X quang, một nhóm các chuyên gia chăm sóc sức khỏe dựa trên các chỉ định lâm sàng. Những người khác sử dụng một sự kết hợp của các dấu hiệu và triệu chứng mà họ đã tìm thấy. Theo truyền thống, điều trị bằng cách phẫu thuật cấy ghép một ống dẫn để giảm áp lực gây ra bởi việc tích tụ của dịch não tủy.

Trên đây là những dạng cơ bản của bệnh mất trí nhớ. Ngoài triệu chứng của các dạng bệnh mất trí nhớ trên đây, việc kiểm tra, xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh cũng là một trong những phương pháp được áp dụng triệt để để tìn ra căn nguyên của bệnh mất trí.

Cập nhật lúc: 30/10/2024
*ƯU ĐÃI* Freeship từ 3 hộp 20 viên hoặc 1 lọ 80 viên trở lên. Chi tiết vui lòng liên hệ 1800.1265
Loading...